Trong những năm chiến tranh, ngã ba Đồng Lộc là mạch máu giao thông để hậu phương chi viện sức người, sức của cho miền Nam.
Những năm 1964-1972, nơi đây bị đánh phá liên tục và năm 1968 là ác liệt nhất. Từ tháng 4 đến tháng 10/1968, ngã ba Đồng Lộc phải hứng chịu gần 50.000 quả bom các loại, bình quân mỗi mét vuông đất nơi đây gánh trên 3 quả bom. Mặt đất bị biến dạng, đất đá cày đi xới lại.
Ngã ba Đồng Lộc tưởng như không có một bóng cây, ngọn cỏ nào có thể mọc nổi. Vậy nhưng, ngày đêm trên đoạn đường này vẫn có hàng nghìn người làm nhiệm vụ thông suốt giao thông, đảm bảo an toàn cho người và hàng hóa chi viện vào chiến trường miền Nam.
Tại chiến trường ngã ba Đồng Lộc lúc bấy giờ có nhiều lực lượng như: Bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân giao thông, công an, dân quân du kích…, thời điểm đông nhất lên tới 16.000.
Tham gia lực lượng pháo binh 50 năm trước, ông Nguyễn Trinh (84 tuổi, trú xã Đồng Lộc) nhớ lại: “Những năm tháng đó máy bay thả bom như mưa. Chiều 27/4/1967, bom rơi vào trường Tiểu học khiến 15 em tử vong, nhiều em khác bị thương, trong đó có con trai út của tôi”. Mẹ ông cũng mất trong một lần chạy bom.
Trưa 24/7/1968, giống như mọi ngày, 10 nữ thanh niên xung phong thuộc Tiểu đội 4, Đại đội 552, Tổng đội 55, ra đường làm nhiệm vụ.
Đến 16h, trận bom thứ 15 trong ngày dội xuống Đồng Lộc, một quả nổ gần căn hầm chữ A, nơi 10 chị đang tránh bom. Hầm sập, tất cả 10 chị hy sinh. Người trẻ nhất mới 17, ba chị lớn nhất cùng 24 tuổi.
Ngày nay, Khu di tích lịch sử cấp quốc gia Ngã ba Đồng Lộc được xây khang trang để tưởng niệm hàng nghìn chiến sĩ và người dân đã ngã xuống để giữ vững mạch máu giao thông Bắc – Nam.
Nhiều công trình kiến trúc đặc biệt được xây dựng, như: Khu mộ 10 cô gái thanh niên xung phong, sa bàn chiến đấu, nhà bảo tàng, tháp chuông Đồng Lộc, cụm tượng đài…
Chiến tranh lùi xa, cuộc sống mới với cung đường giao thông hiện đại, cây xanh mọc lên đã hồi sinh tọa độ chết năm xưa. “Thời gian có thể khiến người ta quên đi bao nhiêu ngã ba trong cuộc đời, nhưng tôi nghĩ khó có ai một lần đi qua mà có thể quên được Ngã ba Đồng Lộc với những câu chuyện cảm động”, ông Nguyễn Trinh chia sẻ.
Tại phần mộ của 10 nữ thanh niên xung phong ở Ngã ba Đồng Lộc, có hai cây bồ kết mọc lên xanh tốt, cao hơn nhiều so với những cây thông, cây vú sữa bên cạnh. Trời nắng, bồ kết xòe tán tỏa bóng mát cho cả khu mộ.
Mỗi lần tới thắp hương, du khách thắc mắc tại sao lại có hai cây bồ kết mọc ở đây?
Ông Nguyễn Thế Linh (hiện 77 tuổi, nguyên Đại đội trưởng 552) kể chiều 24/7/1968, dưới trời nắng như đổ lửa, ông nhận lệnh sẽ có đoàn xe quân sự đi qua Đồng Lộc, nhiệm vụ của các tiểu đội là đào hầm địa đạo trú ẩn và san đường.
Khi nhận nhiệm vụ, Tiểu đội trưởng Võ Thị Tần, 24 tuổi, có người yêu sắp cưới. Cô Hồ Thị Cúc, tiểu đội phó 24 tuổi, đã qua một đời chồng. Những người còn lại đều chưa lập gia đình.
Tiểu đội 4 do chị Võ Thị Tần chỉ huy, hôm ấy chỉ còn lại 10 người, bốn người khác bận việc không tham gia.Cuối giờ chiều, hai máy bay lướt qua dội bom xuống chỗ gần nơi các chị đang làm nhiệm vụ. 10 người bị đất đá vùi lấp, tử vong do bị sức ép từ quả bom, riêng tiểu đội phó Cúc chưa tìm thấy thi thể.
“Tôi đứng chỉ huy trên tháp chuông, cách vị trí thả bom vài trăm mét, vội vàng chạy xuống, gọi thất thanh nhưng chị em ai nấy đều đã nằm im”, ông Linh nhớ lại.
Đêm hôm đó, cả đại đội khóc. Trong không gian mịt mờ, xung quanh tiếng côn trùng kêu, ông Linh ngồi một mình trực bên thi thể 9 cô gái, việc tìm kiếm người còn lại vẫn tiếp diễn.
Tiểu đội đã về xếp một hàng ngang
Cúc ơi! Em ở đâu không về tập hợp
Chín bạn quây quần đủ mặt
Nhỏ, Xuân, Hà, Hường, Hợi, Rạng, Xuân, Xanh
A trưởng Võ Thị Tần đã điểm danh
Chỉ thiếu mình em
Chín bỏ làm mười răng được.
Sang ngày thứ ba, đồng đội tìm thấy chị Cúc trên đồi Trọ Voi, cách hố bom cũ 20 m trong tư thế ngồi, đầu đội nón, bên cạnh là cái cuốc. Thương xót người em, nhà thơ Yến Thanh – cán bộ kỹ thuật đội N55 cùng có mặt lúc đó đã viết những dòng thơ trên.
Bà Nguyễn Thị Hường (68 tuổi, từng là thanh niên xung phong Tiểu đội 4) kể, ngày hy sinh, đầu tóc của những nữ đồng đội dính đất cát, quần áo vấy bẩn.
Ngày hè nắng bỏng rát, nước sinh hoạt thiếu thốn, trên trời bom vẫn không ngừng rơi. Khi khâm liệm, nhiều nữ thanh niên xung phong đầu chưa gội sạch, quần áo vẫn lấm bùn.
“Nhiều đồng đội ước có quả bồ kết để gội đầu cho các cô thì tốt biết bao”, bà Hường nói.
Hòa bình lập lại, khi đến thăm Đồng Lộc, đại tá Nguyễn Tiến Tuẩn, nguyên Giám đốc Công an Hà Tĩnh, đã về Hương Sơn tìm 2 cây bồ kết mang đến trồng bên cạnh mộ phần các nữ thanh niên xung phong.
Ông Nguyễn Viết Hồng (74 tuổi, trú xã Thiên Lộc, Can Lộc) kể, giữa năm 1968, tranh thủ thời gian được cử ra miền Bắc học tập, ông xin phép thủ trưởng về quê kết hôn. Vừa đặt chân đến nhà, ông nhận tin dữ: Vợ sắp cưới đã hy sinh.
Ông Hồng là người yêu của chị Võ Thị Tần – “Chị cả” của 10 nữ thanh niên xung phong ở Đồng Lộc.
Nhà cách nhau một dậu mùng tơi, chàng trai Hồng mến cô hàng xóm bởi nụ cười hiền, đức tính giản dị. Cuối năm 1964, anh ngỏ lời và được gia đình bạn gái đồng ý. Họ tổ chức lễ dạm ngõ, chờ ngày làm đám cưới.
“Sau đó tôi lên đường nhập ngũ”, ông Hồng nói.
Tối hôm đi nhận quân, trời mưa tầm tã. Chị Tần tới cầm tay anh Hồng, lấy từ trong túi áo trao cho anh một bức ảnh và lọn tóc thề. Anh Hồng tặng lại cho chị chiếc lược trắng. Trao kỷ vật xong, cả hai nhìn nhau không nói nên lời. Anh Hồng vào Quảng Trị, chị Tần ở lại Đồng Lộc.
Những năm tháng xa cách, anh chị liên lạc bằng thư. Năm 1968, khi anh Hồng ra đảo Cồn Cỏ thì mất liên lạc với người yêu. Anh bị thương, được cử ra Bắc học tập. Sau đó anh tranh thủ về quê cưới vợ, nào ngờ ngày về là ngày chia ly.
Hết chiến tranh, anh Hồng trở lại quê, hàng ngày vẫn qua lại chăm sóc bố đẻ của chị Tần. Thấy chàng trai vẫn nặng tình với con gái, bố chị Tần khuyên nên cưới vợ, song anh lần lữa. Thuyết phục không được, ông làm mối một cô gái trong huyện với anh và họ nên duyên.
Vợ chồng ông Hồng xem chị Tần là thành viên của gia đình, rước ảnh chị Tần về lập bàn thờ.
Chiến tranh buộc những chàng trai hay cô gái phải đi thêm bước nữa, dù không như ý nguyên ban đầu. Song cũng có nhiều người không thể bước tiếp.
Ông Nguyễn Thế Linh cho hay, đại đội do ông quản lý có nữ thanh niên xung phong tên Cát, yêu chàng trai trú cùng xã song anh này đóng quân xa. Buổi chiều năm 1968, người yêu hành quân ghé qua nhà ở Đồng Lộc, cô Cát nghe tin mừng rỡ, xin thủ trưởng về gặp anh.
“Về đến cổng nhà, cả hai chạy ra gặp nhau. Đúng lúc ấy, máy bay thả ngay một quả bom trước cửa. Họ chưa kịp nói một lời tâm tình…”, ông Linh kể.
Chuyện của anh Hồng – chị Tần, của nữ thanh niên xung phong Cát là câu chuyện chung của cặp nam nữ đã trao kỷ vật, song chỉ có thể hẹn nhau ở bên kia thế giới, tại Ngã ba Đồng Lộc.
Khi chiến tranh kết thúc
Sau giải phóng, bà Nguyễn Thị Hường chuyển về làm trong ngành thương nghiệp. Lấy chồng làm bộ đội, bà có ba người con, cuộc sống tuổi già yên ấm với một căn nhà cấp bốn tại thành phố Hà Tĩnh.
Từng chung tiểu đội 4 với 10 cô gái đã hy sinh, những ngày lễ Tết, bà cùng đồng đội hiện còn sống thường lên thắp hương, tưởng nhớ những người bạn xưa cùng chung chiến hào. Những lần gặp, mọi người ôm nhau khóc.
Bà Hường kể, hòa bình lập lại, những cô gái thuộc tiểu đội 4 ra quân, người làm ở công ty may mặc, người chuyển về đội vận tải. Với những nam nữ thanh niên xung phong khác, không chuyển được ngành, họ về quê.
Chiến tranh buộc họ phải làm việc giữa thời tiết khắc nghiệt, ngâm mình dưới nước hàng giờ. Trở về, nhiều người mang bệnh tật, cơ thể đau yếu thường xuyên. Lập gia đình, song họ mất thiên chức làm bố, làm mẹ.
“Một số khác, vì muộn phiền nhiều chuyện, không kết hôn mà tìm đến chốn thanh tịnh nơi cửa Phật”, bà Hường cho hay.
Bà Nguyễn Thị Ngọc Hợi (69 tuổi, trú huyện Hương Khê) tâm sự, thỉnh thoảng liên lạc với bạn bè từng là thanh niên xung phong ở Đồng Lộc, họ khóc qua điện thoại, chia sẻ cuộc sống vất vả, có người kinh tế eo hẹp nên gia đình lục đục.
“Tôi hạnh phúc vì có một tổ ấm, nhưng nhiều đêm nằm mơ thấy bom rơi, giật mình tỉnh giấc thấy thương đồng đội ngày xưa vô cùng”, bà Hợi nói.
Ông Đào Anh Tuân, Phó ban quản lý Khu di tích Ngã ba Đồng Lộc cho biết, mỗi năm nơi đây đón hàng trăm nghìn lượt khách tham quan, dâng hương. Họ là những cựu binh, thanh niên, thiếu nhi, công nhân, viên chức….
Những người làm quản lý ở đây đang huy động các nguồn lực để chỉnh trang tổng thể khu di tích, xây dựng đền thờ Ngã ba Đồng Lộc, phục dựng công trình vết tích chiến tranh.
Một ngày giữa tháng 10/2017, chị Tú (40 tuổi, đến từ Yên Bái) chia sẻ, khi nghe hướng dẫn viên kể về sự hy sinh của 10 nữ thanh niên xung phong, chị đã khóc.
Rất nhiều du khách cũng sụt sùi khi xem tư liệu và thước phim tại Bảo tàng Đồng Lộc. “Nhân sắp đến ngày phụ nữ Việt Nam, xin dâng những bông cúc trắng, nén hương thơm và tấm lòng thành kính lên các nữ thanh niên xung phong”, chị Tú chắp tay trước mộ phần 10 liệt sĩ.
Theo Vnexpress